Nhằm đáp ứng yêu cầu trên và nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, lần thứ 50 ngày chiến thắng phát xít Nhật của nhân dân trên toàn thế giới, Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furata Motoo đã tiến hành nghiên cứu và biên soạn cuốn sách "Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam - Những Chứng Tích Lịch Sử".
Biện pháp căn bản và lâu dài để giải quyết nạn đói ở Việt Nam sau ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công là A. nghiêm trị những người đầu cơ tích trữ lúa gạo. B. thực hiện phong trào thi đua tăng gia sản xuất. C. tổ chức điều hòa thóc gạo giữa các địa phương. D. thực hiện lời kêu gọi cứu đói của Hồ Chí Minh. Câu 19.
Chi tiết có giá trị tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945. Trong nạn đói đó, Tràng nuôi thân còn chưa đủ, song anh vẫn sẵn sang đưa cô gái về nhà cưu mang.
Kết quả: nạn đói đã được đẩy lùi. + Giặc dốt: Phát động phong trào xoá nạn mù chữ. Kết quả: trong vòng 1 năm (9-1945 đến 9-1946 ) có hơn 2 triệu người thoát nạn mù chữ.
Nguyên nhân nào dẫn đến nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu đồng bào ta chết đói ? * a.Vì Pháp và Nhật bóc lột sức lao động nhân dân quá nặng nề. b.Vì chúng cưỡng bức thu mua lương thực với giá rẻ. c.Vì nhân dân ta liên tiếp gặp thiên tai mất mùa. d.Vì
Ví như như giữa những năm đói hèn của nạn đói 1945, bà là fan gắn bó với người sáng tác nhất, yêu thương tác giả nhất thì vào tám năm ròng của cuộc loạn lạc chống Mĩ, tình cảm bà con cháu ấy lại càng sâu đậm: "Mẹ cùng phụ vương công tác bận không về
A4dwr. Đang tải.... xem toàn văn Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống Thông tin tài liệu Ngày đăng 26/12/2018, 1005 NHÓM QTKD 9A8 HN - Tạ Thị Lan Tạ Thị Hồng Hạnh Phạm Thị Huệ Lê Thị Anh Đào Thị Thanh Huyền Trần Thị Hồng Đặng Bình Minh NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nguyên nhân Nguyên nhân trực tiếp - Những hậu chiến tranh đông dương - Các cường quốc chiếm đóng Việt Nam Pháp, Nhật Bản • Vì mục đích phục vụ chiến tranh lạm dụng khai thác sức vào nơng nghiệp vốn lạc hậu, đói • Nhật thu gom gạo trở nước, Pháp dự trữ lương thực phòng quân Đồng minh chưa tới, phải đánh Nhật dùng cho tái xâm lược Việt Nam Ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn thiếu gạo nên bị đói Nguyên nhân gián tiếp - biện pháp quân hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh Pháp - Sau Nhật Bản loại bỏ Pháp thực biện pháp khác khốc liệt nhằm mục đích khai thác phục vụ chiến tranh - Các sách vơ vét thóc gạo pháp xít Nhật Tháng 10/1940 Nhật thi hành hàng loạt sách đánh vào kinh tế Việt Nam • Buộc Pháp ký kết nhiều hiệp ước yêu cầu cung cấp lương thực • Giao nộp lúa ,gạo cho Nhật hàng năm • Cấm vận chuyển lương thực từ Nam Bắc • Hạn chế chuyên trở tự • Chỉ cho trở 50 kg gạo tỉnh • Bắt người dân nhổ lúa trồng đay Năm 1940 diện tích trồng đay đến năm 1944 tăng lên - Năm 1944 VN bị mùa phải cung cấp cho Nhật gạo - Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra, vơ vét thóc gạo miền Bắc khiến giá thóc, gạo tăng vọt, cấm ln việc mở kho gạo cứu đói Nguyên nhân tự nhiên thời tiết yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực miền Bắc - Tháng 9/1944, lụt vỡ đê Lê Giang Hà Tĩnh, đê sông Cả Nghệ An làm cho nạn đói diễn trầm trọng hơn,bệnh dịch tả lây lan nhanh rộng khắp mùa lũ góp phần làm tăng thêm nạn đói - Vụ mùa năm 1944 , lúa đồng ruộng hàng trăm mẫu bị rầy phá hoại, chết trắng, chết vàng Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, manh nha từ đầu năm 1944 thêm trầm trọng Tình hình nạn đói - Nạn đói diễn 32 tỉnh miền Bắc Bắc Trung Bộ , từ Quảng Trị trở - Những người ảnh hưởng trực tiếp người nghèo, người lao động làm thuê - Trong tình cảnh họ ăn thứ ăn từ ốc, cua, ếch,… đến thịt người Hàng dài người đợi ăn có người chết trước ăn - Nhiều đứa trẻ trở thành trẻ mồ côi bố mẹ bỏ rơi chết - Vì q đói nên phận dân tụ tập lại cướp gạo thóc từ tay phát xít Nhật - Ở nơng thôn xác người chết khắp nơi người chôn phải chôn xác ngày - Nhiều làng xã chết 50-80% dân số, có dòng họ chết hết khơng - Còn thành phố xác dân ăn xin thối lâu ngày dọn trở lên xe chôn - Những xác chết khơng phân biệt giới tính chết lâu ngày - Bác Hồ Đảng phát động phong trào hũ gạo cứu đói với hiệu “1 nắm đói gói no” Hậu quả CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LẮNG NGHE ... mẫu bị rầy phá hoại, chết trắng, chết vàng Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, manh nha từ đầu năm 1944 thêm trầm trọng Tình hình nạn đói - Nạn đói diễn 32 tỉnh miền Bắc Bắc Trung Bộ , từ Quảng... Hà Tĩnh, đê sông Cả Nghệ An làm cho nạn đói diễn trầm trọng hơn,bệnh dịch tả lây lan nhanh rộng khắp mùa lũ góp phần làm tăng thêm nạn đói - Vụ mùa năm 1944 , lúa đồng ruộng hàng trăm mẫu...NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nguyên nhân Nguyên nhân trực tiếp - Những hậu chiến tranh đông dương - Các cường quốc - Xem thêm -Xem thêm tìm hiểu về nạn đói năm 1945, Từ khóa liên quan những hình ảnh về nạn đói năm 1945 một vài hình ảnh về nạn đói năm 1945 thi tim hieu ve quan doi nhan dan viet nam bai thi tim hieu ve quan doi nhan dan viet nam tìm hiểu về sự đối lập tìm hiểu về cơ thể nam giới tìm hiểu về facebook việt nam tìm hiểu về các đời xe dream thái phim tài liệu nạn đói năm 1945 tìm hiểu về cuộc đời của hồ chí minh cuộc thi tìm hiểu về môi trường năm 2012 tìm hiểu về bãi rác nam sơn câu hỏi tìm hiểu về biến đổi khí hậu tìm hiểu về nước hoa nam nhung bai thi tim hieu ve quan doi khảo sát chương trình đào tạo của các đơn vị đào tạo tại nhật bản khảo sát chương trình đào tạo gắn với các giáo trình cụ thể tiến hành xây dựng chương trình đào tạo dành cho đối tượng không chuyên ngữ tại việt nam khảo sát thực tế giảng dạy tiếng nhật không chuyên ngữ tại việt nam mở máy động cơ lồng sóc mở máy động cơ rôto dây quấn đặc tuyến dòng điện stato i1 fi p2 phần 3 giới thiệu nguyên liệu chỉ tiêu chất lượng theo chất lượng phẩm chất sản phẩm khô từ gạo của bộ y tế năm 2008 chỉ tiêu chất lượng 9 tr 25
lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi " Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi" được nhắc tới trong bài thơ gọi nhớ về thời điểm nào của đất nước? Việc nhà thơ tác từ " mòn mỏi" để ghép thành "đói mòn đói mỏi" có tác dụng gì? Ở bài thơ “Bếp lửa” Bằng Việt trong dòng hồi tưởng người cháu nhớ lại “Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi....”Rồi trở về thực tại“ Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tầuCó lửa trăm nhà niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...Câu hỏi a Nêu ý nghĩa văn bản và hoàn cảnh ra đời của bài thơ?Đọc tiếp Xem chi tiết Nhớ về những kỉ niệm tuồi thơ, trong bài thơ Bếp lửa, Bằng Việt viết“Lên bốn tuồi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏị,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”Trích Ngữ văn 9, tập mộtCâu 1 Chỉ ra số từ mà tác giả sử dụng trong đoạn thơ và cho biết sự kiện lịch sử nào được nhắc tới trong những câu thơ trên? Sự kiện này giúp em hiểu thêm điều gì về tuổi thơ của người cháu?Câu 2 Xét thẹo mục đích nói, câu “Nghĩ lại đến giờ...Đọc tiếp Xem chi tiết nội dung, nghệ thuật của khổ 2? mình đố các bn làm dcphân tích hình ảnh saumùi khói đói mòn đói mỏikhô rạc ngựa gầycay-nội dung,nghệ thuật khổ 3tú hú cs ý nghĩa gìliên hệ các tác dụng khác}hình ảnh người bà trong khổ thơ hiện lên như thế nào?-khổ 4 tìm bptt và nêu tác dụngkhổ 5giải nghĩa từ lận đận,nắng mưatác dụng của điệp từ nhòm?bà nhóm lên trong lòng cháu những tình cảm gìtác dụng của than từ ôivì sao cháu cảm nhận đc trong bếp lửa bình dị cs sự thiêng liêng và kỳ lạ-khổ cuối dấu chấm câu g...Đọc tiếp Xem chi tiết “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”Ngữ văn 9, tập hai, NXB GD, 2014 Xem chi tiết Chủ đềBếp lửa- Bằng ViệtCâu hỏinội dung, nghệ thuật của khổ 2? mình đố các bn làm dcphân tích hình ảnh saumùi khói đói mòn đói mỏikhô rạc ngựa gầycay-nội dung,nghệ thuật khổ 3tú hú cs ý nghĩa gìliên hệ các tác dụng khác}hình ảnh người bà trong khổ thơ hiện lên như thế nào?-khổ 4 tìm bptt và nêu tác dụngkhổ 5giải nghĩa từ lận đận,nắng mưatác dụng của điệp từ nhòm?bà nhóm lên trong lòng cháu những tình cảm gìtác dụng của than từ ôivì sao cháu cảm nhận đc trong bếp lửa bình dị cs sự thiêng liêng...Đọc tiếp Xem chi tiết Ở bài thơ Bếp lửa trong dòng hồi tưởng người cháu nhớ lại Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi rồi trở về thực tại Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở - Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa? 1. Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ. 2. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi được nhắc đến trong bài thơ gợi về thời điể...Đọc tiếp Xem chi tiết Phần I điểmMột nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại đã viết về bà và quê hương nguồn cội bằng tất cả sự nhớ thương, trăn trở. Bài thơ có những câu rất xúc độngNhớ ngày sơ tán lang thangĐọi cơm,bát mắm, thuốc thang bòng đèo Còng lưng Bà gánh đói nghèoMột thân mỏng, Bà chống chèo đói no [...] Vùi trong hơi ấm của BàMắt cháu ngủ, mắt Bà nhoà trong sươngĐỗ Quân, Gorzow,Poland 05/2003Câu 1. Bài thơ “Bếp lửa” Bằng Việt cũng có một khổ thơ viết về người bà đã thay cha mẹ, “chống chèo đói no” cho đứa c...Đọc tiếp Xem chi tiết Từ láy chờn vờn trong dòng thơ đầu giúp em hình dung gì về hình ảnh bếp lửa mà tác giả nhắc tới? Xem chi tiết Bài bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Bằng Việt đã viết“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”.Câu 1 Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ 2 Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Xét theo từ loại, nhan đề bài thơ thuộc loại từ gì?Câu 3 Từ “nhóm” trong đoạn thơ vừa chép có ý nghĩa như thế nào? Biện pháp tu từ sử dụng?Câu 4 Bài thơ đã gợi nhắc rất nhiều kỉ niệm tuổi thơ, đó là những kỉ niệm nào?Câu 5 Trong dòng kỉ niệm của tuổi thơ, người cháu rất nhớ câu nói của bà “Bố ở c...Đọc tiếp Xem chi tiết
15 cuốn sách hay về nạn đói năm 1945 kể cho chúng ta nghe câu chuyện về nạn đói lớn những năm 1945 khiến hàng triệu người thiệt đói năm 1945 làm khoảng 400 ngàn – 2 triệu người chết. Ngày nay, nhắc đến nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu ấy người ta sẽ chỉ nhớ có thể, hoặc nếu hơn thì sẽ là những hình ảnh bi thảm trong những thước phim của bộ phim Sao Tháng Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch Sử là công trình nghiên cứu được công bố năm 1995 do Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Motoo chủ biên. Đến khi ấy, công chúng mới ngỡ ngàng và tìm về cái năm bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam hiện chết khủng khiếp nhất của bất kỳ sinh vật sống nào là chết đói. Cái chết đến dần dần, làm tổn thương và dày vò con người trong đau đớn, xấu hổ và kinh hoàng. Tuy nhiên, nạn đói năm 1945 đã để lại những thảm họa không ai lường trước được. Những cửa hàng bị bỏ hoang, những xác người thối rữa nằm rải rác trên đường phố và những ngôi mộ tập thể dày đặc. Cái đói hủy hoại mọi đạo đức, cá tính và lương tâm – những bi kịch trong đó cái đói biến con người thành quái vật, trẻ sơ sinh bị răng nanh hoang dã nuốt chửng, cha con tàn sát lẫn nhau để giành lấy miếng khốc, kinh hoàng là tất cả những gì có thể dùng để nhắc về thảm kịch năm ấy. Con số 2 triệu người cứ như thế xoáy sâu dần dần vào lịch sử và sẽ nhắc cho độc giả thấy, 1945 không chỉ là một năm của độc lập huy hoàng, đó còn là năm của tang thương mất NhặtVợ nhặt là truyện ngắn của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945, được in trong tập Con chó xấu xí 1962.Tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công. Tác phẩm đang viết dang dở thì bị mất bản thảo, nhà văn sau đó đã dựa vào cốt truyện cũ để viết truyện ngắn đánh giá của các nhà phê bình văn học, giá trị của Vợ nhặt là tố cáo tội ác của thực dân, phản ánh cuộc sống thê thảm của nhân dân trong nạn đói. Qua đó, Kim Lân đã bộc lộ sự cảm thông với nỗi khổ của những người dân nghèo, phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách Cũ Hà Nội… Băm sáu bố phường, Cái tàu điện, Phố Mới, phố Hàng Đào, phố Hàng Ngang, phố Nghề, Hội Tây, Bà Ba Bé Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai Tây, Cây Hồ Gươm Chỉ nêu vài tên bài như thế cũng thấy sự hiện diện đa dạng của cái nội thành đa đoan lắm chuyện. Phố Hàng Đào với những “mợ Hai” khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, phố Hàng Nganh với những chú tây đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ môi giới thuê mướn – cả mua bán – những vú em, thằng nhỏ, con sen… những thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên cái tàu điện leng keng, những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm, những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm đến áo Lơ Muya sặc sỡ mối thời trang một thời…Cái hay ở Tô Hoài là những cái lăng nhăng sự đời ấy chũ của Tản Đà đã có ít nhiều người ghi lại. Chuyện ông Hai Tây làm xiếc, Bà Bé Tý lên đồng… sách báo đã từng đề cập. Nhưng lần này Tô Hoài lại nhìn ra những nét hoạt kê mới, hay cũng đã nhiều người viết về quà Hà Nội nhưng cái bài Chả cá, Bánh cuốn, Phở của Tô Hoài có những thông tin hay, mới mẻ, ngay như Nguyễn Tuân cũng chưa phát hiện hết. Cũng như các loại tiếng rao hàng ban đêm thì Thạch Lam đã ghi chép vậy mà ở Tiếng rao đêm của Tô Hoài vẫn có nhiều ý tứ vậy đó, với vài nét kí họa, Tô Hoài đã vẽ được cái thần thái của một thành phố nghìn tuổi đang đô thị hóa gấp gáp trở thành nửa Tây nửa ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê…Có một Hà Nội nhố nhăng như thế thì cũng có một Hà Nội lầm lầm than ấy càng rõ nét hơn ở các làng quê ven nội. Thợ cửi, thợ giấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ, rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu và những người dân lành đói khổ phải nhận đi “tù rượu thay” để vợ con ở nhà có người chu cấp. Sự bần cùng ấy hằn sâu nhất trong chuyện Chết đói. Nạn đói năm 1945 đã làm vợi đi của làng Nghĩa Đô bao người. Ngay cả tác giả và bạn văn Nam Cao nếu không có một người quen ý tứ trả công dạy học lũ con ông ta bằng gạo thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa…”Trong sách còn một mảng kể về phong tục. Nhiều cái nay không còn. Như các đám múa sư tử thi đêm Rằm Trung Thu ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đường và đánh nhau chí tử, quang cảnh những ngày áp tết dường như cả nước kéo về Hà Nội… Ở ven đô thì hội hè đình đám, khao vọng, đám ma… Các bài Làm ma kho, Thẻ thuế thân, Khổng Văn Cu vừa bi vừa hài. Có một bài tuyệt hay, đó là bài mô tả đám rước Thánh Tăng. Đích thị là một lễ hội phồn thực có từ đời nảo đời nao mà tới tận thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại, lại ở ngay sát nách kinh kì. Bấy nhiêu hình ảnh không bao giờ xuất hiện nữa nhưng tôi cứ nghĩ rằng ngày nay, ít ra thì những nhà làm phim lịch sử, viết truyện lịch sử, dựng kịch lịch sử rất cần đến. CHUYỆN CŨ HÀ NỘI chính là một tập kí sự về lịch sử…
Nỗi kinh hoàng của một sự kiện lịch sử đau thươngNạn đói năm 1945 đã từng được ví là “sự hủy diệt khủng khiếp” trong lịch sử vốn đã quá nhiều đau thương, mất mát của dân tộc Việt Nam. 70 năm đã trôi qua, nhưng những nỗi đau để lại từ “sự hủy diệt khủng khiếp” ấy dường như vẫn còn đó, khôn tịch Hồ Chí Minh đã từng so sánh nạn đói năm 1945 ở Việt Nam với tổn thất của cuộc chiến tranh Pháp- Đức, Người viết “Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh. Thí dụ, trong 6 năm chiến tranh, nước Pháp chỉ chết 1 triệu người, nước Đức chỉ chết chừng 3 triệu người. Thế mà, nạn đói nửa năm ở Bắc Bộ ta đã chết hơn 2 triệu người…” Trích Hồ Chủ Tịch hô hào chống nạn đói năm 1945.Trong 6 tháng, số người chết vì đói ở Việt Nam lớn hơn cả số người chết vì chiến tranh ở Pháp trong 6 đói năm 1945 đã diễn ra vô cùng khốc liệt Ảnh của cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An NinhCho đến nay, nhiều tài liệu đã khẳng định, số người chết trong nạn đói kinh hoàng năm 1945 nhiều hơn con số 2 triệu, nhưng rất khó để có được số thống kê cụ đói năm 1945 diễn ra từ cuối năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 với “địa bàn” chính từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ với “đỉnh điểm” là tỉnh Thái Bình. Theo con số ghi chép từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto, ở xã Tây Lương thuộc Tiền Hải- Thái Bình nơi nạn đói diễn ra kinh khủng nhất, 66,66 % số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả Bình- nơi diễn ra nạn đói thảm khốc nhấtTừ tháng 1/1945 đến tháng 5/1945, xác người chết nằm ngổn ngang từ Quảng Trị đến khắp các tỉnh miền Bắc. Ở đâu người ta cũng nhìn thấy xác người chết đói. Trong 70 năm qua, những hố chôn người tập thể vẫn là nỗi đau đớn, ám ảnh khôn nguôi của biết bao thế hệ. Trong ký ức của nhiều người vẫn còn giữ lại hình ảnh những chiếc xe bò chở xác người trên những phố Hà Nội buổi sáng sớm, hình ảnh người nằm chết la liệt ở khắp các con đường, hình ảnh những người kiệt sức, còng queo xếp hàng dài nối nhau đi xin ăn…Xác người ở khắp nơi... Ảnh Võ An NinhNói về tính tàn khốc của nạn đói, cuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” viết, “Nạn đói vô cùng khủng khiếp. Nó kéo dài cái chết khiến nạn nhân bị các cơn đói dày vò, đau khổ, tủi nhục. Nhìn thấy người thân chết mà không cứu được, biết đến lượt mình rồi sẽ chết mà không thoát được. Muốn tìm cái sống đã phải dứt bỏ nhà cửa, quê hương, mồ mả tổ tiên ra đi, mong sao được cứu sống, nhưng rồi lại chết gục ở đầu đường xó chợ…”.Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” còn miêu tả hình ảnh những trẻ em nhay vú mẹ đã chết, người đi lĩnh chẩn bế đứa con trên tay nhưng con đã chết…Cuốn sách viết, “Nạn đói đã chôn vùi nhân phẩm con người. Nạn đói diễn ra vô cùng thảm khốc. Hàng nghìn hộ chết cả nhà, nhiều dòng họ chết cả họ, hàng chục xóm làng chết cả xóm, cả làng”.Tội ác chiến tranhThu gom xác người trên phố Ảnh Võ An NinhTrong tác phẩm “Chuyện cũ Hà Nội” của nhà văn Tô Hoài, ông từng viết, “Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944-1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá”.… “Sau đảo chính mùng chín tháng Ba, lính Nhật đi đẩy người đói không xuể. Người ngồi, người chết la liệt các vỉa hè. Suốt ngày suốt đêm kéo xác chết lầm lũi qua”- Tô Hoài đói cơ cực, đau thương của nạn đói năm 1945 cũng từng được miêu tả trong tác phẩm văn học nổi tiếng “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.… “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người…” Trích “Vợ nhặt”.Ảnh tư liệuNguyên nhân của nạn đói kinh hoàng năm 1945 ở Việt Nam được cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” phân tích rất đó, Nhật thu gom lúa gạo, Pháp dự trữ lương thực phục vụ cho chiến tranh, trong khi thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ. Không dừng lại ở đó, Nhật còn bắt nhân dân ta phá lúa, hoa màu để trồng cây đay. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.Còn nữaCuốn “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Nguyễn Văn Tạo và GS. Furuta Moto công bố năm 1995, đến nay đã 20 năm trôi qua, cuốn sách được xem là tư liệu quý giá về sự kiện lịch sử Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam.“Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” là công trình khoa học công phu với nhiều tư liệu quý. Để tiến hành nghiên cứu, biên soạn công trình này, các tác giả đã phải dày công sưu tập, khai thác tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau tư liệu thành văn, tư liệu điều tra và khảo sát thực địa trên 23 điểm thuộc 21 tỉnh, thành từ Quảng Trị trở HươngBài viết có sử dụng thông tin, tài liệu từ cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam- những chứng tích lịch sử” của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Moto
Giới thiệu sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt NamNhững tác phẩm văn học như truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân, “Một bữa no” của Nam Cao hay “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài, hoặc tác phẩm thơ như “Bếp lửa” của Bằng Việt, đều lồng vào trong đó câu chuyện về nạn đói cuối năm 1944 đầu xuân 1945, nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử khi đã khiến hơn 2 triệu đồng bào thiệt mạng. Nhưng, ở góc độ khảo cứu từ những chuyên gia có chuyên môn, nạn đói này còn những ẩn khuất nào mà chúng ta chưa được biết? Cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam” sẽ cho ta một cái nhìn toàn cảnh về một giai đoạn đau thương của dân tộc Việt Nam mình. Họ đi thành rặng dài bất tuyệt gồm cả gia đình, già lão có, trẻ con có, đàn ông có, đàn bà có, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lỗ, gầy guộc giơ xương ra run rẩy, ngay cả đến những thiếu nữ đã đến tuổi dậy thì, đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại để vuốt mắt cho một người trong bọn họ đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng hãy còn che thân người đó...". - Thư của Vespy tháng 4/1945 NHỮNG CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Thế chiến II dần đi đến hồi kết với chuỗi thất bại liên tiếp của Phe Trục Đức, Italia, Nhật Bản. Ở mặt trận Đông Nam Á, Phát xít Nhật với tham vọng điên cuồng dần hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương và tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân ta nhằm phục vụ cho mưu đồ chiến tranh của chúng. Những chính sách bóc lột vô cùng tàn bạo của Nhật, cộng với mất mùa, dẫn đến nạn đói được coi là tàn khốc nhất trong lịch sử Việt Nam, khiến cho hơn 2 triệu người Việt chết đói và hậu quả vẫn còn ảnh hưởng cho tới tận ngày nay. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ Các cường quốc đang chiếm đóng Việt Nam như Pháp, Nhật Bản vì mục đích phục vụ chiến tranh đã lạm dụng và khai thác quá sức vào nông nghiệp vốn đã lạc hậu, đói kém gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt. Trong khi Nhật thu gom gạo để chở về nước thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa tới, phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói. Nguyên nhân gián tiếp là những biện pháp quân sự hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế độ thực dânPháp tại Việt Nam, do tại nước Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm chiếm. Sau đó Nhật Bản dùng vũ lực loại bỏ Pháp chiếm đóng Việt Nam rồi thực hiện các biện pháp khác khốc liệt hơn nhằm mục đích khai thác phục vụ chiến tranh bắt nông dân nhổ lúa trồng đay để giải quyết nạn khan hiếm vải, buộc người dân bán lúa gạo với giá rẻ mạt để chuyển về Nhật. Không có số liệu chính xác về số người đã chết đói trong nạn đói này, một số nguồn khác nhau ước tính là từ khoảng đến 2 triệu người đã bị chết đói tại miền bắc Việt Nam. Đây là tỷ lệ chết đói rất cao, vì dân số toàn Việt Nam năm 1945 chỉ khoảng 23 triệu, trong đó khoảng 9 triệu sinh sống ở các tỉnh xảy ra nạn đói. NHỮNG CÂU CHUYỆN XÚC ĐỘNG "Số nạn nhân của nạn đói ở thôn Lương Phú, xã Tây Lương, mà những người còn may mắn sống sót đã cho là tới hơn 40% tổng số dân của thôn, tương đương với mức thiệt hại đã xảy ra ở vùng Hachinohe miền Bắc Nhật Bản, nơi gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất trong suốt nạn đói lớn nhất ở Tenmei ở thời kỳ Edo." - Giáo sư Furuta Motoo “Ông bố dẫn cậu con trai đi Hà Nội, nghe nói vào làng Tám rồi sau chết ở đâu không rõ. Hai mẹ con sang nhà ông ngoại cậy nhờ, nhưng người con gái vẫn không thoát chết. Vì bị đói, suy dinh dưỡng, bụng to trướng rồi chết. Thế là chỉ có bà vợ của ông qua khỏi. Gia đình cụ Hoàng Văn Duẩn có 5 nhân khẩu chỉ đi làm thuê, mò cua bắt ốc, chết đói cả nhà, gia đình người em là Hoàng Riếc, chồng đi đánh dậm, vợ mò cua, cả nhà có 5 nhân khẩu cũng chết cả nhà. Hai anh em nhà này là người chết đầu tiên ở địa phương..." - Ông Nguyễn Văn Thâu 64 tuổi xóm Nam Thọ, thôn Hiên, xã Tây Lương. Cuốn sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam có gì? Nhằm cung cấp cho bạn đọc một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống những chứng tích về sự mất mát, đau thương mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu trong lịch sử trước tội ác của phát xít Nhật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật kết hợp cùng Omega+ xuất bản cuốn sách Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử, dựa trên những tài liệu được khảo cứu công phu, khảo sát trực tiếp các địa điểm xảy ra nạn đói, phỏng vấn những chứng nhân lịch sử, cuốn sách đã dựng lại khá toàn diện bức tranh về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam. Nhận xét về cuốn sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam “Kết quả của công trình đã làm sáng rõ về số lượng hơn 2 triệu người chết đói; về thảm họa chết đói; về nguyên nhân sinh ra nạn đói năm 1945 và hậu quả nghiêm trọng của nó. Công trình Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử đã chứng minh một cách chắc chắn rằng Nguyên nhân sinh ra nạn đói ở Việt Nam năm 1945 là do chính sách vơ vét, bóc lột tàn bạo của phát xít Nhật đối với nhân dân Việt Nam.” - Viện trưởng Viện Sử học, Đinh Quang HảiThông tin tác giả GS. Văn Tạo, GS. Furuta MotooGS. Văn Tạo, GS. Furuta MotooGS. Văn Tạo là Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam từ năm 1980 đến năm 1989. Trong hơn nửa thế kỷ làm công tác nghiên cứu lịch sử, ông đã để lại một sự nghiệp khoa học khá đồ sộ với gần 100 cuốn sách do ông biên soạn, chủ biên hay tham gia biên soạn, hơn, 200 bài viết công bố trên nhiều tạp chí, trong các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. GS. Furuta Motoo là Viện trưởng Viện Cao học Văn hóa tổng hợp kiêm Hiệu trưởng Trường Đại cương, Đại học Tokyo; Phó Giám đốc Thường trực Đại học Tokyo; Giám đốc Thư viện, Đại học Tokyo; Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Nhật - Việt; Chủ tịch Hội Nhật Bản nghiên cứu Đông Nam Á; hiện ông là Hiệu trưởng Trường Đại học Việt - Nhật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Các giải thưởng mà ông nhận được gồm Huy chương Hữu nghị năm 1980; Giải thưởng Nhà nước về khoa học công nghệ năm 2012; Huân chương Hữu nghị năm 2013Sách Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam của tác giả GS. Văn Tạo, GS. Furuta Motoo, có bán tại Nhà sách online NetaBooks với ưu đãi Bao sách miễn phí và Gian hàng NetaBooks tại Tiki với ưu đãi Bao sách miễn phí và tặng Bookmark
Nạn đói ở Thái Bình Bóp cổ, moi thức ăn từ miệng người khác Chúng ta có thể tự hào bởi những trang sử hào hùng và kiêu hãnh, nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Kỳ 1 Những câu chuyện bi thươngTrong Viện Sử học Việt Nam có lưu bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy viết tháng 4/1945 tả về thảm cảnh nạn đói 1945 “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”. Theo thống kê của Viện Sử học, số người chết trong nạn đói Ất Dậu lên tới 2 triệu người. Nạn đói xảy ra trên diện rộng, từ Quảng Trị trở ra Bắc Kỳ. Mở lại những trang hồ sơ về sự kiện bi thảm ấy, cũng không còn nhiều câu chuyện cụ thể được ghi chép lại. Nạn đói năm Ất Dậu – 1945. Ảnh Võ An Ninh Nạn đói xảy ra trên địa phận tỉnh Thái Bình là khủng khiếp nhất. Cảnh chết đói diễn ra khắp nơi trong tỉnh, nhất là các huyện phía nam. Hàng ngày, từng đoàn người đói rét dắt díu nhau đi lang thang ăn xin rồi chết ở đầu đường xó chợ. Nhiều gia đình chết không còn một ai. Nhiều làng chết đói từ 50 đến 80% dân số. Chỉ trong vòng 5 tháng, số người chết đói trong toàn tỉnh lên đến 28 vạn người, chiếm khoảng 1/4 dân số toàn tỉnh. Chúng ta có thể tự hào bởi những trang sử hào hùng và kiêu hãnh, nhưng chúng ta cũng không thể quên đi những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Hiện tại, cũng không mấy người còn hình dung ra những thảm cảnh kinh hoàng 70 năm trước. Mùa thu năm 2014, tôi lên đường tìm lại những dấu tích cũ, những nhân chứng sống của nỗi đau lịch sử đó. Thái Bình giờ thay da đổi thịt, làng quê khang trang như phố thị, người xe nườm nượp, đầy tiếng trẻ nô cười. Có ai ngờ rằng, nơi đây từng là địa ngục trần gian. Khi tôi đặt vấn đề tìm hiểu về những số liệu của thời kỳ đau thương ấy, nhà sử học Đặng Đình Hùng, một nhà nghiên cứu lịch sử tỉnh Thái Bình cho biết, mặc dù sinh sau nạn đói gần 10 năm, nhưng ông vẫn được nghe, được kể rất nhiều về nạn đói. Những câu chuyện, những con số của nỗi đau năm 1945 vẫn luôn ám ảnh ông. Khi vụ mùa gần như mất trắng, cộng thêm thiên tai, vỡ đê, dân Thái Bình rơi vào nạn đói kéo dài từ tháng 8 năm Giáp Thân 1944 sang đến những tháng đầu năm Ất Dậu 1945. Trong khi đáng lẽ phải cứu đói khẩn cấp thì chính quyền phát xít Nhật lại thực hiện chính sách thu mua thóc tạ thời chiến. Họ tỏa về các làng xã thu vét thóc gạo. Vào cuối 1944, khi chiến tranh thế giới thứ 2 đi vào giai đoạn quyết liệt, Nhật – Pháp chuẩn bị chiến tranh, bọn đế quốc càng ráo riết tích trữ các mặt hàng chiến lược, đặc biệt là lương thực thực phẩm. Đến đầu năm 1945, nạn đói bùng nổ khi dân chúng không còn bất cứ cái gì để ăn, thóc gạo cũng hết, ăn sạch cả củ sắn, củ mài, nhặt cỏ rau má ăn, củ chuối cũng đào hết. Những bức ảnh ghi lại thời kỳ đau thương trong lịch sử dân tộc Ảnh Võ An Ninh Thời kỳ đó, không ai còn nghĩ đến ai cả, họ hàng, bố con, anh em bỏ nhau hết, con đến nhà bố thì bố đóng cửa không cho vào, bố đến nhà con thì con không nhận, vì quá đói, sợ đến lại không còn cái gì để ăn. Người ta bắt đầu đổ ra ngoài, tìm mọi cách để giành giật lấy mọi thứ có thể cho vào mồm. Có lẽ không lời nào có thể tả hết được thảm cảnh đó. Lúc cao điểm, ở các con đường, người chết lẫn người sống nằm la liệt, hoặc không thì bò lê bò lết, đói quá không ai còn sức đứng dậy nổi. Rất nhiều trẻ con nằm chết, bởi bố mẹ sinh ra không nuôi nổi đành bế ra đường bỏ. Một cụ già ở xã Tây Lương Tiền Hải, Thái Bình kể rằng, ông nhớ mãi hình ảnh 2 mẹ con nằm ngay bên vệ đường trong lần ông đi mua rượu cho địa chủ, mẹ chết trước, con ánh mắt đờ đẫn cứ nằm trên bụng mẹ bú vào cặp vú, là mẩu da nhỏ dính trên bộ ngực toàn xương xẩu. Cây số 3 trên đường từ Thái Bình đi Hà Nội, nay là một khu vực sầm uất, hàng quán san sát, chỉ có một cột mốc cũ kỹ bên vệ đường. Thời nạn đói xảy ra, ở đó đã từng có hàng vạn người đói rách quằn quại tụ tập ở đây với hy vọng có thể tìm được một con đường sống. Cây số 3 trong nạn đói Ất Dậu 1945 Ảnh Võ An Ninh Câu chuyện được nhà sử học Đặng Đình Hùng ghi chép Có người đàn ông đi làm thuê, bốc vác, ông có mang theo mấy củ khoai cùng với nắm cơm. Gọi là cơm nhưng thực ra là cám trộn với một ít gạo, một ít rau, trấu… làm lương thực ăn dọc đường. Lúc về qua địa phận đó, xung quanh là những con người nằm im bất động, sống hay chết cũng không biết. Mệt quá nên ông đành ngồi lại nghỉ ngơi, vừa mới móc tý lương thực ít ỏi ra thì bất thần những thây ma ngóc đầu dậy, rồi xúm vào vồ lấy nắm cơm. Có một người giật được, cho ngay vào mồm, nhưng chưa kịp nuốt thì đã bị những kẻ khác dùng tay bóp nghẹt cổ họng, thè cả lưỡi và rơi miếng cơm ra. Cả nhóm lại nhảy vào xâu xé cái miếng cơm ít ỏi đó… Nhà sử học Đặng Đình Hùng bên cột mốc số 3 hiện tại, nay là một khu vực sầm uất Bảo tàng tỉnh Thái Bình trông thật khang trang, bề thế. Cạnh đó là những công trình, nhà cửa san sát, những dấu tích cũ cũng đã biến mất. Nhưng cách đây gần 70 năm, ngay cạnh đó là trại tế bần do những thân hào, nghĩa sỹ yêu nước đứng ra thành lập. Họ vận động những nhà giàu có trong vùng quyên góp để cứu đói. Nơi đây, các nghĩa sĩ đã nấu cháo phát chẩn. Dù lượng cháo quá ít ỏi nhưng đó là niềm hy vọng sống nhỏ nhoi của hàng vạn con người đang lay lắt từng ngày. Địa danh từng là trại tế bần Mỗi người được một bát nhỏ, toàn nước cháo loãng, có tý gọi là chất gạo. Nhưng ai nhận được cháo phát chẩn mà ăn ngay tại chỗ thì còn được vào người, được an toàn, chứ chỉ cần bê tô cháo quay ra ngoài, ra khỏi hàng là y như rằng bị cướp. Thậm chí, lúc giằng co bát cháo rơi xuống, có người ngay tức khắc nằm ra để hứng, không hứng được, họ cào cả lớp đất vừa ngấm tý nước gạo cho ngay vào mồm. Có người rách lưỡi, rách họng vì nuốt vội cả mảnh bát vỡ. Vể sau, người ta gọi đùa trại tế bần đó là Nhà máy cháo, ký ức về một thời đau thương của dân tộc.
thơ về nạn đói 1945